hình 1 hình 1 hình 1 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4 hình 4
Kỹ thuật thâm canh lúa cải tiến SRI (22/09/2017)
Hệ thống canh tác lúa cải tiến (SRI - System of Rice Intensification) được phát triển ở Mandagascar từ năm 1961 đến 1995 đã giúp nông dân tăng sản lượng trồng trọt lên gấp 2 lần và ổn định cuộc sống. Ở nước ta, SRI được đưa vào ứng dụng tại các tỉnh phía Bắc từ năm 2003 và được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận là tiến bộ kỹ thuật áp dụng trong sản xuất lúa ở các tỉnh phía Bắc tại Quyết định số 3062/QĐ-BNN-KHCN ngày 15/10/2007.

Hiện nay, SRI là hệ thống thâm canh lúa được đưa vào trong chương trình chống biến đổi khí hậu và phát thải hiệu ứng nhà kính tại Việt Nam.

Đến nay đã có trên 20 tỉnh, thành ứng dụng SRI và đều cho hiệu quả vượt trội so với phương pháp canh tác thông thường như: lượng thóc giống giảm từ 50-90%, phân đạm giảm 20-25%, năng suất bình quân tăng 9-15%, lợi nhuận tăng từ 2-5 triệu đồng/ha, giá thành/kg thóc giảm trung bình 342-520 đồng, tiết kiệm được khoảng 1/3 chi phí về thủy lợi. Nhu cầu nước tưới cho ruộng lúa giảm được khoảng 30% so với canh tác truyền thống trở nên rất hữu ích trong điều kiện khan hiếm nguồn nước tưới hiện nay. 

Mặt khác, việc rút cạn nước ruộng thường xuyên góp phần làm hạn chế lượng khí nhà kính phát thải vào khí quyển. Canh tác theo SRI cũng sẽ tạo cho tiểu vùng sinh thái đồng ruộng khả năng hạn chế dịch hại phát triển như bệnh khô vằn, bệnh nghẹt rễ, ốc bươu vàng…

Ngoài ra, SRI còn làm tăng khả năng chống chịu của cây lúa đối với những yếu tố có liên quan đến tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu như: cây lúa cứng, khỏe hơn nên ít bị đổ ngã trong điều kiện mưa bão, tăng khả năng chống chịu đối với sâu bệnh mới xuất hiện.

(Ảnh st)

Về kỹ thuật SRI khá đơn giản, cụ thể:

  1/ Làm mạ: Chỉ cần gieo 0,5 kg thóc giống cho 1 sào cấy, mạ ngâm ủ bình thường như bà con vẫn làm. Chuẩn bị 4 - 5mđất gieo, đất phải nhuyễn bùn, sạch cỏ, luống rộng 1 - 1,2 m, rãnh rộng 20 - 30 cm, sâu 10 - 25 cm mặt luống phẳng không đọng nước, bón lót cho 100 m2  từ 4 - 5kg supe lân khi làm đất mạ ( không nên bón đạm cho mạ). Vụ mùa nên chọn đất vàn, vàn cao dễ thoát nước; Vụ chiêm xuân chọn đất vàn, vàn trũng để dễ tưới đủ ẩm và chống rét cho mạ. Cũng có thể làm mạ trên nền đất cứng: Lấy bùn trên ruộng lúa, rải đều trên nền đất cứng hoặc sân gạch dày từ 3 -3,5cm, luống rộng 1 -1,2 m. Lưu ý khi gieo mạ phải đều tay, hạt giống phải chìm để chống chim, chuột, chống nắng và chống rét.

   2/ Làm đất ruộng cấy: Cày bừa kỹ, nhuyễn bùn, sạch cỏ, kéo phẳng, luống rộng 2m, rãnh 25 - 30cm, sâu 10 - 15cm để tiện cho việc rút cạn nước, đi lại chăm sóc, bón phân và thu diệt ốc bươu vàng. Cách làm rãnh có thể cho một ít đất cát hoặc gạch đá vừa phải vào bao tải, sau khi làm đất kỹ kéo theo dây định khoảng cách luống sẵn, cách làm này nhanh đỡ tốn công. Nên làm đất trước khi cấy 1 ngày để bùn lắng, mực nước 1 - 2 cm để dễ cấy.

   3/ Kỹ thuật cấy: Cấy mạ non, cấy thưa, cấy thẳng hàng. Tuổi mạ khi cấy từ 2 -2,5 lá ( Vụ mùa chỉ sau gieo 6 - 7 ngày). Mật độ cấy với lúa lai, ruộng đất tốt cấy 30 khóm/ m; lúa thuần, ruộng đất xấu cấy 35 khóm/ mvà đều chỉ cấy 1 dảnh/ khóm. Lưu ý: Khi cấy hạn chế mạ bị tổng thương bộ rễ, dùng xẻng xúc nhẹ nhàng từng miếng đất mạ, vận chuyển tránh dập nát, xúc đến đâu cấy ngay đến đó không nên để mạ qua đêm, khi cấy dùng tay tách từng dảnh có một chút đất đặt nhẹ nhàng trên mặt ruộng, không được nhổ mạ đem cấy.

    4/ Làm cỏ, sục bùn: Sau khi cấy 6 - 7 ngày phải sục bùn, làm cỏ, kết hợp với bón phân thúc đẻ lần 1. Không nên phun thuốc trừ cỏ vì sẽ làm ảnh hưởng quá trình đẻ các dảnh hữu hiệu trong 15 ngày đầu và rất độc hại với con người, gây ô nhiễm môi trường.

    5/ Bón phân: Phải bón cân đối đạm, lân, kali, bón  đúng cách, đúng thời điểm cây cần. Cụ thể:

      + Bón lót: Tận dụng các nguồn phân hữu cơ, phân chuồng hoai mục lượng từ 200 - 300 kg/ sào, vôi 15 - 20 kg/ sào bón khi bừa vỡ. Sau bừa cấy lần cuối bón lót NPK 15 kg/ sào hoặc Phân khoáng hữu cơ 4 kg/ sào; phân đạm từ 1,5 - 2 kg/ sào.

       + Bón thúc đẻ: Bón rất sớm so với tập quán, sau cấy 6 - 7 ngày phải bón thúc lượng đạm với lúa lai 4,5 kg/sào; lúa thuần 2 - 3 kg/ sào và 2 - 3 kg Kali/ sào kết hợp làm cỏ, sục bùn để phá váng, vùn phân xuống sâu. Lưu ý: Nếu đất pha cát nhiều thì chia lượng đạm thành 2 lần bón cách nhau 10 ngày để hạn chế lượng đạm bị rửa trôi.

       + Bón đón đòng: Nên bón đón đòng sớm, thời điểm sau cấy với vụ mùa khoảng 40 ngày là thích hợp, khi 10% dảnh cái đầu lá có hiện tượng thắt eo, nên bón lượng đạm từ 2 - 2,5 kg/ sào, kết hợp với phân Kali từ 2 - 2,5 kg/ sào. Lưu ý: Bà con nông dân thường có tập quán khi bóc dảnh cái thấy giống cứt gián hoặc đòng to rồi mới bón đón đòng là đã muộn, bông lúa nhỏ, kéo dài thời gian sinh trưởng và làm cho cây lúa dễ bị sâu bệnh giai đoạn này.

     6/ Điều tiết nước: Từ khi cấy đến khi kết thúc đẻ lần 1 phải luôn duy trì có nước láng bề mặt ruộng. Sau khi bón phân thúc đẻ khoảng 5 ngày tiến hành tháo cạn chỉ cần giữ cho ruộng đủ ẩm; chỉ tưới khi mặt ruộng khô nẻ, tưới theo phương pháp tưới tràn. Khi cây lúa phân hoá đòng đến khi chín sáp nên giữ mực nước trên ruộng khoảng 3 - 4cm. Trước khi thu hoạch 15 ngày lại tháo cạn nước để tiện thu hoạch.

     7/ Phòng trừ sâu bệnh: Sâu bệnh chỉ gây hại khi có các điều kiện, yếu tố sinh thái thích hợp. Việc điều chỉnh các biện pháp kỹ thuật canh tác nêu trên theo hướng có lợi cho cây lúa nhưng bất lợi cho sâu bệnh hại, sẽ hạn chế sâu bệnh. Do vậy, chỉ phun thuốc theo kết quả điều tra đồng ruộng và khi sâu bệnh đến ngưỡng gây hại kinh tế.

LV

Lượt xem:  1,950 Google Bookmarks Google Bookmarks Bản in Quay lại

Tin đã đưa
Trang 1 / 23 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
 Go To 
 
Xem theo ngày :

Văn phòng Điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Nam
Địa chỉ: 119 Hùng Vương - TP. Tam Kỳ - Quảng Nam
Điện thoại: 0235.2221348 - 0235.2221377 - Fax : 0235.3858885
Email:vpdpnongthonmoiqnam@gmail.com