Sáng ngày 15 tháng 3 năm 2017, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam tổ chức Hội nghị phát triển làng nghề gắn với tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Ông Lê Trí Thanh - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh chủ trì và tham dự Hội nghị có đại biểu thuộc các Sở, Ban, Ngành cùng với đại diện 18 huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh.
Báo cáo tại Hội nghị đã đánh giá tình hình hoạt động ngành nghề, làng nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua và định hướng, đề ra giải pháp phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn gắn với tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong thời gian đến. Theo đó, Quảng Nam hiện có 44 làng nghề và làng nghề truyền thống, trong đó có 28 làng nghề, làng nghề truyền thống được UBND tỉnh công nhận. Tổng số cơ sở sản xuất tham gia hoạt động ngành nghề tại các làng nghề là 3.005 cơ sở; trong đó: Doanh nghiệp (05), chiếm 0,17 %; HTX (04), chiếm 0,13 %; THT (07), chiếm 0,23 %; hộ làng nghề (2.989 hộ), chiếm 99,47 %. Số lao động trong làng nghề là 5.981 lao động, chủ yếu là lao động nữ và độ tuổi trung niên, lớn tuổi. Lao động trẻ (dưới 35 tuổi) rất ít, tập trung chủ yếu ở Làng nghề mộc Kim Bồng. Điều này cho thấy áp lực về nhân lực trẻ kế thừa nghề tại các làng nghề là rất lớn. Mức thu nhập bình quân chung/lao động/tháng năm 2016 tương đối thấp, tỷ lệ lao động có mức thu nhập bình quân chung/lao động/tháng năm 2016 từ 03 triệu đồng trở xuống chiếm khoảng 60 %, tập trung ở những làng nghề dệt vải, dệt thổ cẩm, dệt chiếu cói, nón lá, đan lát, rèn, chế biến nước mắm. Về hoạt động sản xuất, kinh doanh: Hầu hết các làng nghề duy trì ổn định nhờ gắn với phát triển du lịch như: Làng nghề mộc Kim Bồng, Làng nghề gốm Thanh Hà (Hội An), một số làng nghề còn gặp nhiều khó khăn, tính ổn định thấp. Trong thời gian qua, Trung ương, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế chính sách, quy định có liên quan đến hỗ trợ, phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn, nhờ đó mà hoạt động ngành nghề, làng nghề ở Quảng Nam đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, đặc biệt là lao động ở độ tuổi trung niên, lớn tuổi, lao động nữ, bảo tồn và giữ gìn nét văn hóa truyền thống đặc sắc của mỗi vùng miền, tạo cơ hội giao lưu văn hóa thông qua du lịch, góp phần quan trọng trong tiến trình xây dựng nông thôn mới.
Định hướng trong thời gian đến là bảo tồn và phát triển làng nghề, làng nghề truyền thống gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; khai thác các tiềm năng lợi thế của địa phương, tạo ra những sản phẩm đặc trưng, mang dấu ấn, thương hiệu của làng nghề Quảng Nam; phát triển làng nghề để góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, giảm nghèo bền vững, thu dần khoảng cách giữa thành thị và nông thôn; phát triển làng nghề phải trên cơ sở phát triển hài hòa giữa sản xuất hàng hóa với bảo vệ môi trường và gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của địa phương. Với định hướng nêu trên, các giải pháp cần thực hiện trong giai đoạn tiếp theo là:
Quy hoạch làng nghề, làng nghề truyền thống gắn với các điểm, tuyến du lịch, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; triển khai xây dựng quy hoạch vùng nguyên liệu (đất sét; đất trồng cói lát, tre, mây...) và rà soát lại các làng nghề đã có quy hoạch, thực hiện việc di dời các cơ sở gây ô nhiễm môi trường đến các khu, cụm công nghiệp, cụm làng nghề đã được quy hoạch.
Đào tạo nguồn nhân lực, lao động; công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyến thống; công nhận nghệ nhân và thợ giỏi; sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu; cấp con dấu xác thực “ Craft in Quảng Nam” đối với sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Về vốn vay phát triển sản xuất và thuế: Ưu tiên cho các đối tượng làng nghề vay vốn ưu đãi từ các kênh của Ngân hàng Chính sách xã hội, Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã của Liên minh Hợp tác xã tỉnh Quảng Nam, Quỹ hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ... với thủ tục đơn giản, thời gian trả vốn vay, lãi suất vay phù hợp với đặc điểm sản xuất ngành nghề. Nghiên cứu về chính sách miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế có liên quan khác theo quy định để các đối tượng làng nghề đầu tư sản xuất, kinh doanh, nhằm khuyến khích phát triển ngành nghề, làng nghề nông thôn.
Tăng cường nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới kết hợp với kỹ thuật sản xuất truyền thống, nhằm tạo nên hệ thống kỹ thuật linh hoạt thúc đẩy nhau phát triển, đảm bảo cho các sản phẩm vẫn giữ nét truyền thống, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời phát triển thị trường công nghệ, kích thích nhu cầu đổi mới thiết bị, công nghệ, tạo mọi điều kiện cho các cá nhân, tổ chức tư nhân được tham gia vào những chương trình, đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ do nhà nước tài trợ.
Đảm bảo môi trường làng nghề: Rà soát, đánh giá thực trạng ô nhiễm môi trường tại các làng nghề trên địa bàn tỉnh và việc thực hiện các quy định về bảo vệ môi trường làng nghề theo các quy định của Nhà nước, nhằm từng bước giảm thiểu ô nhiễm môi trường do các làng nghề gây ra, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Ưu tiên hỗ trợ kinh phí đối với các cơ sở sản xuất sạch hơn trong sản xuất công nghiệp-TTCN khi xét duyệt Đề án.
Tăng cường xúc tiến thương mại và phát triển thị trường: Hỗ trợ các cơ sở ngành nghề tại làng nghề điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước đối với sản phẩm làng nghề. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử, hỗ trợ các cơ sở ngành nghề tại làng nghề xây dựng website giới thiệu, quảng bá sản phẩm làng nghề; trước mắt tăng nguồn kinh phí hỗ trợ để thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng Internet nhằm quảng bá thương hiệu và các sản phẩm làng nghề. Tạo mối liên kết giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong các làng nghề với các doanh nghiệp lớn, trong đó các doanh nghiệp này sẽ đứng ra làm đầu mối thu mua, bao tiêu sản phẩm cho các cơ sở sản xuất kinh doanh ở làng nghề trên tinh thần hợp tác, liên kết lâu dài và cùng có lợi.
Tiếp tục xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ làng nghề: Từ thực trạng các chính sách hỗ trợ phát triển các làng nghề hiện nay, cần rà soát lại các cơ chế, chính sách hỗ trợ không còn phù hợp, chồng chéo nhằm loại bỏ, đồng thời tích hợp xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ theo hướng ưu tiên đối với các làng nghề có công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, làng nghề có doanh thu cao, giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động với mức thu nhập ổn định, có vùng nguyên liệu chủ động nhằm giúp các làng nâng cao hiệu quả hoạt động xuất, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và góp phần thực hiện tốt chương trình MTQG về xây dựng nông thôn mới./.
Lương Thị Thủy